Các yếu tố gây vô sinh ở nữ giới

Không ít nguyên nhân gây vô sinh bắt nguồn từ chính cơ thể người nữ giới. Chẳng hạn như nội tiết tố, bệnh tật, biến chứng sau phẫu thuật hoặc thậm chí do hệ thống sinh sản. Đối với các cặp vợ chồng, con cái là món quà vô giá, là sợi dây vô hình kết nối tình cảm gia đình thêm bền chặt. Thế nhưng, thật không may khi không phải ai cũng được nhận món quà này từ thượng đế. Vô sinh ở nữ chiếm khoảng 1/3 các trường hợp gây vô sinh. Có rất nhiều nguyên nhân vô sinh gây ra bởi các yếu tố môi trường hoặc hành vi còn có thể dễ dàng giải quyết và vượt qua vô sinh, nhưng cũng có những điều kiện có thể cản trở quy trình mang thai của nữ giới. 


Một số những nguyên nhân gây vô sinh ở nữ giới này bao gồm: 


Vô kinh.


Khi trưởng thành mà không có kinh nguyệt thì được gọi là vô kinh.

Vô kinh có thể là nguyên phát (từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ thấy kinh) hay thứ phát (đã từng có kinh nhưng sau đó không có kinh nữa hay là kinh rất thưa trên 6 tháng mới có kinh một lần).

Vô kinh có thể do rất nhiều lý do như: dị tật bẩm sinh đường sinh dục (không có tử cung, không có âm đạo), không rụng trứng, suy buồng trứng sớm ở phụ nữ còn trẻ nguyên phát hay sau điều trị có mổ cắt buồng trứng hay hóa trị xạ trị do ung thư.

Nếu vô kinh do không rụng trứng có thể kích thích buồng trứng để có con. Nếu do suy buồng trứng thì phải xin trứng của người khác.

                                 

Viêm vùng chậu.


Bệnh viêm vùng chậu hoặc PID là một nguyên nhân rất phổ biến của vô sinh ở nữ giới. PID là một thuật ngữ liên quan tới viêm tử cung, ống dẫn trứng hoặc buồng trứng và gây ra chủ yếu do nhiễm trùng hệ thống sinh sản hoặc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cụ thể như chlamydia và bệnh lậu là thủ phạm chính liên quan đến PID. Thường xuyên khám phụ khoa và kiểm tra các bệnh tình dục là cách tốt nhất để tránh phát triển PID. 

Hội chứng đa nang buồng trứng.


Hội chứng buồng trứng đa nang là một điều kiện gây ra bởi mất cân bằng hormone trong hệ thống sinh sản nữ. Điều này làm giảm lượng trứng và vì vậy làm giảm khả năng sinh sản. Tuy nhiên, vì bệnh buồng trứng đa nang có liên quan đến bệnh béo phì và tiểu đường, nên điều chỉnh hành vi lối sống có thể giúp giải quyết vấn đề này.

Màng trong dạ con.


Màng trong dạ con là một điều kiện mà các mô trong tử cung phát triển, lây lan đến các khu vực khác trong hệ thống sinh sản, bao gồm các ống dẫn trứng hoặc buồng trứng. Sau đó, trong chu kỳ kinh nguyệt, những mô này bị phá vỡ và có thể gây dính hoặc mô sẹo có thể tạo ra tắc nghẽn trong hệ thống sinh sản. 

                                 


Khuyết tật giai đoạn hoàng thể.


Khuyết tật giai đoạn hoàng thể (LPD) xảy ra khi các giai đoạn hoàng thể ngắn hơn bình thường, không có thể cung cấp cho đủ thời gian cho thành tử cung để phát triển đủ để cho phép một quả trứng được cấy ghép và cho việc mang thai xảy ra. LPD có thể được điều trị bằng bổ sung progesterone. 

U xơ tử cung.


U xơ tử cung là khối u lành tính và thường gặp nhất ở phụ nữ. U xơ tử cung phổ biến hơn ở phụ nữ trên 30 tuổi, hiếm gặp ở phụ nữ dưới 20 và giảm ở những phụ nữ đến thời kỳ mãn kinh. U xơ tử cung có thể rất nhỏ, nhưng thường sẽ phát triển về kích thước và có thể làm giảm khả năng sinh sản mặc dù nó ít phổ biến hơn so với một số nguyên nhân khác.

Chất lượng trứng kém.


Trong một số trường hợp, tổn thương hay bất thường trong hệ thống sinh sản có thể dẫn đến chất lượng trứng kém. Chất lượng của trứng liên quan đến việc tạo ra một phôi thai. Với chất lượng trứng kém, trứng chưa trưởng thành hoặc có thể không có thông tin di truyền cần thiết để tham gia với một tinh trùng để tạo ra một phôi thai. 

                                 

Bệnh tật.


Các bệnh như tiểu đường, tuyến giáp, thận, tuyến thượng thận, và bệnh gan có thể góp phần gây vô sinh ở nữ giới. Một số trong số này có một tác động trực tiếp hơn về khả năng sinh sản và những người khác là gián tiếp. 


Mất cân bằng nội tiết tố nữ.


Mất cân bằng các kích thích tố có nghĩa là quy trình điều hòa cơ thể phụ nữ, chu kỳ sinh sản có thể tạo ra các vấn đề với khả năng sinh sản. Những loại vấn đề đôi khi có thể được giải quyết thông qua thay đổi lối sống. 

Rối loạn tự miễn dịch.


Rối loạn tự miễn dịch tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể của người phụ nữ. Điều này có thể ảnh hưởng xấu đến các tế bào “xâm nhập” cơ thể phụ nữ, chẳng hạn như tinh trùng. 

Suy buồng trứng, rối loạn phóng noãn.


Kinh nguyệt không đều đặn và dần tắt hẳn có thể là dấu hiệu của bệnh tử cung nhi hóa. Có thể uống thuốc nội tiết tố để có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, giữ cho tử cung bình thường. Còn khi lập gia đình thì phải đến ngay cơ sở điều trị hiếm muộn để được khám, chẩn đoán và điều trị.

Rối loạn phóng noãn thường gây khó có thai và việc điều trị phải sử dụng các loại thuốc kích thích sự phát triển của nang noãn buồng trứng. Thông thường tỷ lệ có thai đạt được sau mỗi chu kỳ kích thích buồng trứng khoảng 30%. Kích thích buồng trứng thường không làm quá nhiều lần trên một bệnh nhân nên không ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản và cũng không gây ảnh hưởng lên sức khỏe thai nhi trường hợp cắt một bên buồng trứng thì vẫn có sinh con bình thường.

                                  

Thuốc.Các chị em nên đọc kĩ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng .


Một số loại thuốc bạn đang dùng có thể là một trong những yếu tố chính khiến chị em không thể mang thai. Vì vậy, khi dùng bất kì loại thuốc nào, bạn nên cập nhật thông tin và hướng dẫn sử dụng để hiểu được những tác dụng phụ và những ảnh hưởng của thuốc đến khả năng sinh sản của bạn.

Tuổi tác.


Khả năng vô sinh của chị em cao hơn khi tuổi tác tăng lên. Ở độ tuổi 20, một người phụ nữ sẽ thụ thai, trung bình 90% thời gian trong một khoảng thời gian 12 tháng. Một người phụ nữ 30 tuổi sẽ chỉ có 60-70%. Ở tuổi 40 sẽ thụ thai ít hơn 50%. Tuy nhiên, nếu chúng ta một lần nữa xem xét lại một số thay đổi trong lối sống thì cơ hội thụ thai cũng có thể tăng lên.

Bệnh phụ khoa.


Hiện tượng ra dịch đục có lẫn máu từ âm đạo có thể là triệu chứng của một bệnh lý phụ khoa, có thể liên quan hoặc không liên quan đến khả năng thụ thai. Vì vậy, bạn cần đi khám phụ khoa tại các cơ sở y tế có khoa sản để được chẩn đoán và điều trị.

                                 

Thành phố Mỹ Tho,Thị xã Gò Công,Thị xã Cai Lậy,Huyện Cái Bè, Huyện Gò Công Đông Huyện Gò Công Tây,Huyện Chợ Gạo,Huyện Châu Thành,Huyện Tân Phước, Huyện Cai Lậy,Huyện Tân Phú Đông Vũng Tàu , Tây Ninh , Đắc Lắc , Long An , Bến Tre , Đà Lạt , Lâm Đồng , Nha Trang , Bình Thuận , Gia Lai , Bình Định , Bình Phước , Cần Thơ , Kiên Giang , An Giang , Bạc Liêu , Buôn Ma Thuột , Đà Nẵng , Đắc Nông , Ninh Thuận , Pleiku , Tiền Giang , Trà Vinh , Vĩnh Long , Cà Mau , Đồng Tháp , Phú Yên , Sóc Trăng , Huyện Củ Chi , Huyện Hóc Môn , Quận Thủ Đức , Quận 9 , Quận Gò Vấp, Thị xã Long Khánh , Huyện Long Thành , Huyện Nhơn Trạch , Huyện Trảng Bom , Huyện Thống Nhất , Huyện Vĩnh Cữu , Huyện Cẩm Mỹ , Huyện Xuân Lộc , Huyện Tân Phú , Huyện Định Quán , Thủ Dầu Một , Thuận An , Dĩ An , Bến Cát , Tân Uyên , Dầu Tiếng , Phú Giáo , Bầu Bàng , Bắc Tân Uyên , Thị xã Đồng Xoài , Thị xã Phước Long , Thị xã Bình Long, Thị xã Long Khánh , Huyện Long Thành , Huyện Nhơn Trạch , Huyện Trảng Bom , Huyện Thống Nhất , Huyện Vĩnh Cữu , Huyện Cẩm Mỹ , Huyện Xuân Lộc , Huyện Tân Phú , Huyện Định Quán , Thủ Dầu Một , Thuận An , Dĩ An , Bến Cát , Tân Uyên , Dầu Tiếng , Phú Giáo , Bầu Bàng , Bắc Tân Uyên,Bệnh viện đa khoa đồng nai , phụ khoa đồng nai , nam khoa đồng nai, phá thai đồng nai , Khánh Hòa , Kiên Giang , Kon Tum , Long An , Ninh Thuận , Quảng Bình , Quảng Nam , Quảng Ngãi , Quảng Ninh , Quảng Trị , Sóc Trăng , Thừa Thiên Huế , Đà Nẵng , TP HCM , Quận 1 , Quận 2 , Quận 3 , Quận 4 , Quận 5 , Quận 6 , Quận 7 , Quận 8 , Quận 9 , Quận 10 , Quận 11 , Quận 12 , Quận tân bình , Quận tân phú , Quận phú nhuận , Quận bình thạnh , Quận Bình Tân , Quận gò vấp , Quận bình chánh , Huyện cần giờ , Quận thủ đức.

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.